Tiểu sử Tô_Hiến_Thành

Theo Từ điển Bách khoa Toàn thư Việt Nam, Tô Hiến Thành sinh ngày 22 tháng 1 năm Nhâm Ngọ (11 tháng 2 năm 1102) và mất ngày 12 tháng 6 năm Kỷ Hợi (17 tháng 7 năm 1179). Ông sinh ra ở Xóm Lẻ thuộc làng Hạ Mỗ, nay thuộc xã Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng, Hà Nội).[1] Có giả thuyết cho rằng ông có thể có quan hệ họ hàng với Tô thị, vợ của Đỗ Anh Vũ[2] là nhân vật có quyền lực nhất trong triều đình đầu thời trị vì của vua Lý Anh Tông.[3] Theo sách "Từ Liêm huyện đăng khoa chí" do Cử nhân Bùi Xuân Nghi biên tập thời Tự Đức thì ông từng đỗ Thái học sinh.[4] Thông tin này cũng được dẫn trong các tài liệu "Bản phủ tiền triều chư danh khoa bi" và bia Văn chỉ huyện Từ Liêm dựng năm Tự Đức thứ 25 (1872).

Trong chính sử, Tô Hiến Thành được đề cập lần đầu tiên với vai trò của ông trong việc bình định nổi loạn Thân Lợi.[5] Năm 1140, Thân Lợi tự xưng là con trai Lý Nhân Tông và nổi loạn chống vua Lý Anh Tông ở khu vực phía bắc (nay là Thái Nguyên).[6] Quân của Thân Lợi cuối cùng đã bị quân nhà Lý do Đỗ Anh Vũ chỉ huy đánh tan, Thân Lợi bị Tô Hiến Thành bắt và bị chém đầu theo lệnh của Lý Anh Tông tháng 10 năm 1141.[7] Chính Tô Hiến Thành đã khuyên nhà vua tha cho các thành viên tham gia nổi loạn để tỏ lòng nhân ái đối với dân chúng.[8] Sự nghiệp làm tướng võ của Tô Hiến Thành chủ yếu là dưới thời trị vì của vua Lý Anh Tông. Tiếp nối gương của Thái úy Lý Thường Kiệt, Thái úy Tô Hiến Thành đã cùng vua Lý Anh Tông đi dẹp loạn các nơi, mở mang bờ cõi thêm về phía Tây bắc. Sự nghiệp võ công của ông chống Chân Lạp xâm lược, chinh phạt Chiêm Thành; làm cho vị thế của quốc gia Đại Việt dưới thời Lý Anh Tông trở nên lớn mạnh với các nước lân bang và với nhà Tống; buộc nhà Tống phải công nhận Đại Việt vào năm 1164.

Đền thờ Tô Hiến Thành.

Sự nghiệp làm quan văn của ông cũng hiển hách không kém, nhưng phần lớn công lao lại tập trung ở giai đoạn cuối đời, khi ông trở thành đại thần phụ chính tài năng và đức độ cuối cùng của nhà Lý. Ở giai đoạn trước đó, công lao lớn nhất của ông là việc ông tổ chức khai hoang lấn biển các vùng ven biển thuộc các tỉnh Quảng Ninh, Thanh Hóa và Hà Tĩnh ngày nay. Cuối đời ông làm đến chức Nhập nội Kiểm hiệu Thái phó bình chương quân quốc trọng sự (Tể tướng). Khi vua Lý Anh Tông băng hà tháng 7 năm 1175, Hoàng tử trưởng là Lý Long Xưởng hư hỏng, vua có di chiếu lập hoàng tử Lý Long Cán mới có 3 tuổi lên ngôi (tức vua Lý Cao Tông), đã giao cho ông làm phụ chính.

Hoàng hậu - mẹ Lý Long Xưởng - đem mâm vàng đến hối lộ ông, mong ông đổi di chiếu đưa Long Xưởng lên ngôi, nhưng ông kiên quyết từ chối và làm theo sự ủy thác của Tiên đế. Nhưng do tuổi già sức yếu mà thời gian phò trợ ấu chúa của ông không được là bao. Năm 1179 khi vua mới 6 tuổi, thì ông ốm nặng và mất. Trước khi mất ông tiến cử Trần Trung Tá, người có thực tài, thay mình phụ chính nhà vua, mà nhất quyết không tiến cử Vũ Tán Đường người hầu cận bên mình. Mặc dù người đương thời ví Tô Hiến Thành như Gia Cát Lượng thời Tam Quốc bên Trung Quốc[9], triều đình sau đó đã không nghe theo lời ông cho Trần Trung Tá làm Thái phó phụ chính cho vua, dẫn đến sau này vua Cao Tông không được dạy bảo điều hành chính sự mà chỉ lo ăn chơi, nhà Lý đi vào suy vong.